Mới đây, một nghiên cứu đã được tiến hành nhằm đánh giá hoạt động nuôi tôm trong điều kiện siêu thâm canh với mật độ thả nuôi cao. Các tiêu chí được xem xét đó là tỷ lệ sống, sự tăng trưởng, môi trường nuôi, thời gian nuôi, hiệu quả kinh tế…Kết quả của nghiên cứu là cơ sở quan trọng để áp dụng và cải thiện hiệu quả của hoạt động nuôi tôm thẻ chân trắng hiện nay.
Trong những năm qua, một số công nghệ nuôi tôm siêu thâm canh, tăng mật độ thả nuôi hiện đang được ứng dụng tại nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Không giống như ao đất thâm canh, các hệ thống này hoạt động để đạt được sự cân bằng giữa năng suất tôm cao, các thông số chất lượng nước, giảm trao đổi nước và độ an toàn sinh học lớn hơn. Ao sử dụng diện tích từ 2.500 đến 4.000 m2; độ sâu từ 1.8 đến 3.0 mét, với đáy được lót bạt HDPE, được trang bị cống thoát nước trung tâm. Có thể có các lưu vực để tái sử dụng nước với lớp phủ nhà kính trong suốt hoặc mờ đục. Tôm được cho ăn nhiều lần trong ngày bằng cách phát sóng thủ công hoặc sử dụng khay cho ăn, tốc độ sục khí cơ học cao (20 -30 hp/ ha).
Điển hình như tại đất nước Brazil, quốc gia đã trải qua một loạt các tiến bộ công nghệ và cải thiện được mật độ nuôi tôm tăng lên theo từng thời kỳ. Đầu những năm 1980, các trang trại tiên phong đã áp dụng chế độ nuôi bán thâm canh, đặc trưng bởi mật độ thả nuôi thấp (từ 1 – 3 con/ m2) và thụ tinh hữu cơ để phát triển thức ăn tầng đáy, cho năng suất từ 50 đến 200 kg/ ha/ vụ. Giữa những năm 1990 trở đi, với sự sẵn có của tôm thẻ chân trắng và thức ăn hỗn hợp công nghiệp, mô hình bán thâm canh đã được giới thiệu rộng rãi. Chúng được đặc trưng bởi sự quản lý thức ăn lớn hơn thông qua việc sử dụng các khay cho ăn và mật độ lên đến 30 con tôm/ m2, cho năng suất gần 1.500 kg/ ha/ vụ. Vào cuối những năm 2000, nông dân đã thực hiện các biện pháp tập trung hơn, năng lượng điện được đưa đến các trang trại, cho phép sử dụng máy sục khí vào ao đất với diện tích lên tới 5ha. Tới năm 2003, mật độ có thể vượt quá 50 con tôm/ m2, với năng suất gần 4000 kg/ ha/ vụ.
Trong các nghiên cứu gần đây về hệ thống nuôi tôm mật độ cao đã tạo thành một hệ thống lai kết hợp tuần hoàn nước (RAS). Sự hiện diện của các vi khuẩn và chế độ thay nước bằng 0. Nguyên tắc cơ bản của RAS là xử lý nước thải thông qua một loạt các quy trình, bao gồm lọc vật lý và cơ học, lọc sinh học, khử trùng và oxy hóa trước khi đưa nước đã xử lý trở lại hệ thống nuôi. Nghiên cứu được thực hiện ở điều kiện nuôi tôm với mật độ khác nhau trong mỗi bể để xác định hiệu suất tôm liên quan đến tỷ lệ sống cuối cùng, trọng lượng cơ thể, lượng thức ăn, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và năng suất …nhằm đáp ứng với chế độ trao đổi nước, mật độ thả và thức ăn được sử dụng.
Thiết lập nghiên cứu
Thiết kế được sử dụng trong nghiên cứu gồm 25 bể trụ với thể tích sử dụng từ 6.37 đến 7.96 m3 (diện tích 5.31 m2, chiều sâu từ 1.2 – 1.5 m). Bể có kết cấu thép mạ kẽm và bạt PVC. Các bể được giữ mở, che phủ một nửa với mái che bóng và màng đục, được trang bị một đầu vào và đầu ra nước riêng biệt, sục khí với một hoặc hai ống xốp, khay nạp tự động và khay nạp để ước tính lượng thức ăn gián tiếp. Các bể nuôi có 2 đường kết nối nước, một cho cấp nước tái sử dụng và một cho thoát nước thải, kết nối với hai hồ chứa chôn lấp có thể tích từ 5 – 10m3. Những hồ chứa này làm giảm và oxy hóa các chất hữu cơ có trong nước thải thông qua quá trình lắng đọng, nitrat hóa và oxy hóa mạnh.
Ba thử nghiệm liên tiếp (1, 2 và 3) đã được thực hiện với lượng thức ăn, chế độ nước, mật độ thả … khác nhau. Việc chuẩn bị các bể cho các thử nghiệm bắt đầu bằng việc rửa sạch bằng nước và clo. Sau đó, các bể được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, tráng qua nước mặn để loại bỏ các mảnh vụn. Vào ngày hôm sau, các bể chứa đầy nước sạch, được lọc trước thông qua bộ lọc cát. Riêng trong thử nghiệm 3, nước được khử trùng bằng canxi hypocholorite 5ppm (theo dõi bảng 1).
Tiêu chí | Thử nghiệm 1 | Thử nghiệm 2 | Thử nghiệm 3 |
Độ sâu bể | 1.2 m (6.37 m3) | 1.2 m (6.37 m3) | 1.5 m (7.56 m3) |
Chế độ nước | trao đổi tối thiểu | trao đổi tối thiểu | RAS, tái sử dụng tích hợp |
Chuẩn bị nước | lọc cát | lọc cát | lọc cát và clo |
Sục khí | vòi, 1 điểm | vòi, 1 điểm | vòi, 2 điểm |
Tần suất cho ăn | 4 lần/ ngày | 4 lần/ ngày | 20 lần (ngày và đêm) |
Trọng lượng cơ thể ban đầu (g) | 1.74 ± 0.64 | 1.53 ± 0.33 | 1.32 ± 0.24 |
Mật độ thả nuôi ban đầu (con tôm/ m2) | 186 | 282 | 659 |
Thời gian nuôi (ngày) | 81 | 87 | 64 |
Bảng 1: Các đặc điểm và thông số của 3 thử nghiệm bố trí ban đầu
Trước khi thả nuôi tôm, nước bể đã qua xử lý để thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn dị dưỡng và nitrat hóa. Mỗi bể được thả 8.8 gram thức ăn tôm xay/ m3, chứa tối thiểu 35% protein thô cùng 10 gram mật mía/ m3. Trong thử nghiệm 3, mật rỉ được sử dụng kết hợp với chế phẩm lên men bao gồm dư lượng gạo và men sống (cộng sinh). Quy trình này được lặp lại 3 lần/ tuần trong tháng đầu tiên nuôi tôm. Nguyên liệu lên men được thay thế bằng mật mía từ tháng thứ 2 để duy trì màu nâu của nước nuôi (màu nước đặc trưng khi có sự hiện diện của vi khuẩn nitrat hóa trong hệ thống).
Tôm được thả với trọng lượng cơ thể ban đầu từ 1.3 đến 1.7 gram và với mật độ thả nuôi lần lượt là 186, 282 và 659 con tôm/ m2. Trong thử nghiệm 1 và 2, tôm được cho ăn với tần suất 4 lần/ ngày. Riêng đối với thử nghiệm 3, lượng thức ăn được phân phối một cách cơ học và thủ công hơn (khoảng 20 lần, ngày và đêm).
Bên cạnh đó, các thông số như độ mặn, pH, nhiệt độ và oxy hòa tan trong ao nuôi được xác định ngày một lần. Độ kiềm được xác định để hiệu chỉnh bằng natri bicarbonate (NaHCO3). 20 gram NaHCO3/ m3 được sử dụng để tăng độ kiềm của nước 10 mg/ L.
Thu hoạch
Trong các thử nghiệm 1 và 2, tôm đạt tỷ lệ sống cuối cùng trên 90%. Không có ảnh hưởng đáng kể của loại thức ăn được sử dụng cho sự sống của tôm (p > 0.05). Mặc dù có sự gia tăng mật độ tôm ban đầu là 52% giữa các thử nghiệm 1 và 2 (tương ứng từ 186 đến 282 con/ m2) nhưng sự gia tăng mật độ này không làm ảnh hưởng đến sự sống sót cuối cùng của tôm. Tỷ lệ sống trung bình giữa 2 thử nghiệm (1 và 2) rất sát nhau, lần lượt là 91.49 ± 5.07% và 91.65 ± 3.5%.
Riêng đối với thử nghiệm 3, việc tăng mật độ nuôi lên 659 con/ m2 đã làm giảm tỷ lệ sống cuối cùng, chỉ còn 82.0 ± 7.0%; Tuy nhiên, không có ảnh hưởng của loại thức ăn được sử dụng cho sự sống của tôm (p>0.05) (theo dõi bảng 2).
Hiệu suất kỹ thuật | Thử nghiệm 1 | Thử nghiệm 2 | Thử nghiệm 3 |
FCR | 1.85 ± 0.19 | 1.85 ± 0.11 | 1.63 ±0.08 |
Tiêu thụ thức ăn (g/ tôm) | 18.5 ± 0.74/ 20.1 ± 0.76 | 17.6 ± 1.17/ 19.8 ± 1.06 | 14.0 ± 1.2 |
Trọng lượng cơ thể cuối cùng (g) | 12.08 ± 0.22/ 14.76 ± 2.20 | 11.77 ± 1.11/ 13.95 ± 0.50 | 11.45 ± 1.27/ 12.98 ± 0.86 |
Năng suất cuối cùng (g/ m2) | 2.227 ± 1.77 | 2.282 ± 2.66/ 3.576 ± 93 | 6.526 ± 438 |
Tỷ lệ sống cuối cùng (%) | 91.49 ± 5.07 | 91.65 ± 3.50 | 82.00 ± 7.0 |
Tăng trưởng hàng tuần (g) | 0.89 ± 0.03/ 1.13 ± 0.19 | 0.82 ± 0.09/ 1.00 ± 0.04 | 1.17 ± 0.14 |
Bảng 2: Các thông số từ 3 thử nghiệm sau sau khi thí nghiệm kết thúc
Năng suất tôm cuối cùng tăng tuyến tính như là một hàm của mật độ tôm ban đầu. Mối tương quan giữa ngày nuôi và tất cả trọng lượng cơ thể của tôm thu thập trong các thử nghiệm chỉ ra rằng, với mật độ nuôi dưới 659 con tôm/ m2, sự tiến triển trong hoạt động nuôi, tăng trọng lượng cơ thể tôm vẫn được được duy trì trên các mật độ khác (quan sát hình 1).
Hình 1: Mối tương quan theo cấp số nhân giữa thời gian nuôi (ngày) và trọng lượng cơ thể (g) của tôm thẻ chân trắng ở các mật độ 186, 282 và 659 con tôm/ m2.
Kết luận và kinh nghiệm thực tiễn
Kết quả của nghiên cứu cho thấy, sự gia tăng mật độ thả nuôi ban đầu không làm ảnh hưởng xấu đến hiệu suất tăng trưởng của tôm. Tôm thẻ chân trắng có đủ khả năng sống sót, tăng trưởng hiệu quả khi được nuôi ở mật độ cao, sử dụng nước tối thiểu hoặc tái sử dụng nước thông qua hệ thống lọc nước tuần hoàn (RAS). Trong các mật độ thả nuôi này, tôm thẻ chân trắng đạt tỷ lệ sống cao hơn 90%, tăng trưởng hàng tuần từ 0.8 đến 1.1 g và năng suất từ 2.2 đến 3.0/ m2.
Tôm cũng có thể chịu được mật độ thả cao hơn mức 659 con tôm/ m2 mà không ảnh hưởng đến sự sống sót và tăng trưởng của chúng. Mật độ này cung cấp tỷ lệ sống, tăng trưởng và năng suất cuối cùng tương ứng với 82%, 1.32 gram/ tuần và 6.5 kg/ m2. Ở mật độ thả này, tôm được nuôi trong hệ thống hoạt động với tuần hoàn nước liên tục để cho phép lắng và loại bỏ chất rắn lơ lửng. Điều này cho phép sự ổn định về nồng độ của các hợp chất nitơ và không cần thiết phải duy trì hệ thống nuôi ở chế độ dị dưỡng hoặc với sự có mặt của biofloc.
Vũ Tuân (lược dịch)
Nguồn: Người Nuôi Tôm
>> TÌM HIỂU NGAY |